Một nỗ lực đáng trân trọng

Theo GS.TS Trần Đức Viên, dù chung quanh báo cáo do Nhóm Xếp hạng Đại học Việt Nam công bố lần đầu còn nhiều tranh cãi, nhưng nó đã thực sự làm được một việc là góp phần khiến xã hội nhìn nhận lại giá trị cốt lõi của giáo dục đại học theo hướng tiệm cận dần những chuẩn mực và thông lệ quốc tế.


Sinh viên thực tập trong phòng thí nghiệm Trung tâm Nano và Công nghệ, ĐH Khoa học tự nhiên, ĐH Quốc gia Hà Nội. Ảnh: Hảo Linh
 

Không đi thì không đến

Xếp hạng đại học (ĐH) là một công việc hết sức khó khăn, gai góc và phức tạp, đòi hỏi sự khách quan, nghiêm túc, công phu, thận trọng, dựa trên cơ sở dữ liệu đủ lớn, khả tín, minh bạch với một hệ thống tiêu chí cũng như trọng số của từng tiêu chí phải hết sức khoa học và thuyết phục. Trong bối cảnh Việt Nam, nơi hành vi của mỗi cá nhân và cộng đồng vẫn chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi triết lý sống ‘một trăm cái lý không bằng một tí cái tình’ hay ‘xấu đều hơn tốt lỏi’, v.v…, thì đây còn là một công việc tế nhị và nhạy cảm mà những người không đủ bản lĩnh và dũng khí sẽ không dám làm. Vì thế, việc Nhóm Xếp hạng Đại học Việt Nam (sau đây xin được gọi tắt là ‘Nhóm’) gồm TS. Lưu Quang Hưng, TS. Nguyễn Ngọc Anh, TS.Giáp Văn Dương, TS. Ngô Đức Thế, ThS. Trần Thanh Thủy, và ThS. Nguyễn Thị Thu Huyền, mỗi người ‘một phương trời’, cùng nhau tiến hành và công bố bảng xếp hạng mang tính tổng thể đầu tiên đối với 49 trường đại học Việt Nam đã được đông đảo những người quan tâm đến chấn hưng giáo dục đại học Việt Nam đón nhận một cách trân trọng.

Đã có nhiều ý kiến bày tỏ lòng khâm phục sự nỗ lực, dám đối mặt với khó khăn và không cầu toàn của Nhóm tác giả, tin tưởng vào các phương pháp định lượng được sử dụng, dù còn nhiều tiêu chí và trọng số của các tiêu chí cần được thảo luận thêm. Đặc biệt, điều đáng hoan nghênh là Nhóm đã chú trọng đến chất lượng, nhất là chất lượng nghiên cứu khoa học (NCKH), cái quyết định danh tiếng và đẳng cấp của một trường đại học.

Thực tế là, kết quả xếp hạng đại học, dù do một tổ chức uy tín đến mấy công bố thì cũng không thể hoàn hảo bởi không có bảng xếp hạng nào phản ánh được toàn diện tất cả các mặt và lĩnh vực hoạt động của một trường ĐH. Nhưng bất cứ bảng xếp hạng nào cũng đóng góp những giá trị nhất định và có sự tương thích nào đó với chất lượng đào tạo và NCKH của các trường nằm trong bảng xếp hạng, và vì thế, đó là một tài liệu tham khảo – còn mức độ quan trọng đến đâu thì phụ thuộc vào mục đích và quan điểm của người sử dụng… Các bảng xếp hạng này, không ít thì nhiều, đã góp phần vào việc thay đổi chính sách quốc gia, chiến lược cải thiện chất lượng và hiệu quả hoạt động của các trường đại học theo hướng ngày một nhân văn và khai sáng hơn. Xếp hạng còn khuyến khích các trường minh bạch thông tin, giúp xã hội và nhà nước giám sát tốt hơn chất lượng hoạt động của các trường.

Vạn sự khởi đầu nan, không đi thì không đến, vì thế, với việc công bố báo cáo xếp hạng đầu tiên, Nhóm đã làm cho nhiều người, ít nhất là những bạn bè và đồng nghiệp trong giới học thuật của tôi, vui mừng; vì:

(i) Như vậy là, chúng ta đã có một hệ thống xếp hạng đại học riêng, do một nhóm học giả Việt Nam độc lập tiến hành, đảm bảo khách quan, minh bạch, có tham khảo và đối sánh kỹ càng với các bảng xếp hạng quốc tế nhưng không sao chép, rập khuôn, phù hợp với điều kiện của đất nước;

(ii) Trong khi các tổ chức và cơ quan có trách nhiệm vẫn còn đang loay hoay với việc thực hiện Nghị định số 73/2015/NĐ-CP ngày 08/09/2015 của Chính phủ về ‘phân tầng xếp hạng’ đại học, và câu chuyện ấy vẫn còn đang gây ra nhiều tranh cãi, thì rất may ‘tự dưng’ chúng ta lại có một bảng xếp hạng đại học của Việt Nam do một nhóm phi lợi ích, phi chính phủ, độc lập và không bị tác động của lợi ích nhóm nào, tiến hành;

(iii) Công trình đó không xài một đồng tiền thuế nào của dân, nhóm chỉ có sáu người, làm trong ba năm;

(iv) Kết quả xếp hạng khả tín, vì kết quả này cũng tương đồng với các công bố gần đây về xếp hạng đại học Việt Nam của các bảng xếp hạng quốc tế và trong nước có đánh giá các trường đại học Việt Nam, như Webometrics và Scientometrics for Vietnam;

(v) Chắc chắn phương pháp thu thập số liệu, tiêu chí và các trọng số trong bảng xếp hạng sẽ còn tiếp tục là đề tài tranh luận sôi nổi của những người quan tâm đến chất lượng giáo dục đại học Việt Nam; và vì thế, tự nó đã tạo ra một diễn đàn sôi nổi và xây dựng về chất lượng giáo dục đại học Việt Nam;

(vi) Tạo ra văn hóa chất lượng trong đánh giá đại học, hạn chế dần sự tù mù định tính chung chung, trường này thuộc top trên, trường kia thuộc top dưới như xã hội vẫn thường ‘xếp hạng’;

(vii) Rất có thể công bố này sẽ làm các nhà làm chính sách, các trường đại học phải xem lại công việc của mình, và xã hội cũng sẽ có những điều chỉnh thang bậc giá trị trong giáo dục đại học theo hướng tiệm cận dần những chuẩn mực và thông lệ quốc tế – điều đó, không ít thì nhiều, đều có ích cho người học, cho xã hội; v.v…

Cú huých làm bừng tỉnh nhiều người

Điều quan trọng là kết quả xếp hạng lần đầu này đã như một ‘cú huých’ làm bừng tỉnh không ít người.

Trong nhiều năm qua, các thang bậc giá trị của giáo dục đại học trong xã hội phần nhiều được nhìn nhận cảm tính theo những thước đo của đám đông, không ít trong số đó là phi khoa học. Họ gọi trường X là trường top trên vì trường này nhiều học sinh giỏi bậc THPT thi vào, điểm chuẩn đầu vào cao; họ coi trường Y là trường top dưới vì ít học sinh giỏi thi vào, thí sinh đa phần là con em nông dân, vùng sâu vùng xa, điểm chuẩn đầu vào thấp hơn. Thì ra, trường thuộc top nào phụ thuộc vào điểm chuẩn, mà điểm chuẩn lại phụ thuộc vào việc sinh viên trường ấy ra trường dễ kiếm được việc làm ở các vị trí ‘thơm tho’, nghĩa là lương cao hơn, nhàn hạ hơn, được làm việc trong phòng có máy lạnh, không phải đầu tắt mặt tối, dầm mưa dãi nắng, có nhiều cơ hội thăng tiến hơn, v.v… Họ không cần biết trường đại học ấy đã có những công trình khoa học nào được ứng dụng thành công trong thực tiễn sản xuất và đời sống, có đóng góp đáng kể nào cho quốc kế dân sinh hay đã có cống hiến gì làm phong phú thêm kho tàng tri thức của dân tộc và của nhân loại.

Về đại thể, GDĐH có ba nhiệm vụ chủ yếu: (i) sáng tạo ra tri thức mới thông qua NCKH và phát triển công nghệ, (ii) truyền bá những tri thức ấy và những tri thức kế thừa khác cho thế hệ đương thời và thế hệ sau thông qua đào tạo, và (iii) thắp lên ngọn lửa đam mê sáng tạo, ý thức nghề nghiệp, và trách nhiệm công dân trong lòng người học. Vì thế, để GDĐH không biến thành ‘phổ thông cấp 4’ thì NCKH phải trở thành nhiệm vụ chính trị quan trọng nhất, ngang bằng (nếu không muốn nói là hơn) với nhiệm vụ giảng dạy, như các trường ĐH Nhật Bản và phương Tây đã làm, và sau đó một số nước đang phát triển khác đã khôn ngoan học theo. Vì vậy nhiều người đánh giá cao bộ tiêu chí về NCKH chiếm 40% tổng số điểm xếp hạng của Nhóm.

‘Cú huých’ này sẽ làm các trường đại học suy nghĩ nghiêm túc hơn về NCKH, cái làm nên ‘sức sống của trường đại học’, nhưng thời gian qua không được mấy trường dành cho sự quan tâm thích đáng. Trong GDĐH Việt Nam thì ‘vùng trũng’ sâu nhất là NCKH; nó cần được ‘lấp đầy’ trước hết, để cùng với lực kéo của nhu cầu học tập của xã hội, thì lực đẩy của NCKH trong các trường ĐH sẽ tạo ra những bước đột phá, đưa ĐH Việt Nam hội nhập sâu sắc và toàn diện hơn với bè bạn quốc tế theo những thước đo và thang bậc giá trị chung.

Trong một thế giới mở, cạnh tranh về GDĐH về thực chất là cạnh tranh về NCKH và năng lực đổi mới sáng tạo của các trường đại học vì suy cho cùng, danh tiếng của các trường ĐH được xây dựng và khẳng định dựa trên chất lượng đào tạo, mà chất lượng đào tạo lại phụ thuộc vào chất lượng NCKH – tác động vào ‘điểm nhấn’ này sẽ khiến các nội hàm khác của  của GDĐH thay đổi theo.

Đôi điều góp ý

Nhiều ý kiến cho rằng khi đánh giá về NCKH, Nhóm lấy các công trình công bố trên hệ thống ISI và Scopus là đúng, nhưng chưa đủ. Trong điều kiện cụ thể của đất nước, các tiêu chí về NCKH nên quan tâm nhiều hơn đến các phát minh, tiến bộ kĩ thuật, giải pháp hữu ích, đổi mới và sáng tạo công nghệ được áp dụng trong thực tiễn sản xuất và đời sống, phục vụ quốc kế dân sinh… Những công trình này cần có trọng số cao hơn là các công bố quốc tế, ít nhất là trong giai đoạn hiện nay. Có lẽ là các nhà khoa học Triều Tiên công bố quốc tế rất ít, nhưng họ vẫn khiến cộng đồng khoa học quốc tế nể trọng bởi các cống hiến khoa học của họ cho đất nước mình. Hy vọng là, cách tính này sẽ góp phần thúc đẩy hình thành thị trường KH&CN, một khâu chúng ta còn đang rất yếu.

Nhóm cũng cần bổ sung tiêu chí về tiền ngân sách trên đầu giảng viên, trên một công bố quốc tế, một bản quyền công nghệ, v.v… Cùng trong hệ thống giáo dục đại học quốc dân nhưng có trường được nhà nước đầu tư hàng ngàn tỷ đồng cho chi thường xuyên và cho NCKH, hỗ trợ đến hơn mười triệu đồng/sinh viên/năm học, trong khi có trường lại chỉ nhận được vài ba triệu đồng/sinh viên/năm học, bên cạnh những trường (đại học tự chủ) không nhận được đồng nào hoặc được nhận rất ít sự hỗ trợ kinh phí của nhà nước. Họ phải tự lo mọi hoạt động, cố gắng dành dụm từng đồng cho NCKH. Như vậy, sự cạnh tranh thứ hạng ở đây rất không công bằng. Chúng ta có thể có bức tranh xếp hạng hoàn toàn khác, nhất là về NCKH, nếu Nhà nước đầu tư cho các trường một cách bình đẳng, việc phân bổ kinh phí chỉ dựa trên KPIs (Key Performance Indicators) của các cơ sở giáo dục đại học.

Cùng với xếp hạng theo trường, Nhóm cũng cần quan tâm đầy đủ hơn đến việc xếp hạng theo ngành hay nhóm ngành NCKH và đào tạo, như cách các tổ chức xếp hạng quốc tế đang làm. Một trường có thể xếp hạng 100 trong xếp hạng tổng thể, nhưng lại đứng thứ nhất về lĩnh vực khoa học X, đứng thứ 50 về lĩnh vực khoa học Y, v.v… Làm sao để khi soi vào bảng xếp hạng, hầu hết các trường đều thấy mình trong đó, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh.

Chúng tôi tin rằng, trong các năm tiếp theo, Nhóm sẽ hoàn thiện thêm phương pháp nghiên cứu, bổ sung và chỉnh sửa các tiêu chí và trọng số của các tiêu chí, đồng thời kiên trì và dũng cảm giữ vững tính độc lập, khách quan, tự tin và cầu thị, từ đó giành được thêm niềm tin của xã hội.

 

 

 

Tác giả