Chính sách KH&CN hiện nay liệu có giúp thoát bẫy thu nhập trung bình?

Đó là câu hỏi mà nghiên cứu gần đây đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Phát triển của NXB Routledge, của hai tác giả người Anh là Robyn Klingler – Vidra và Robert Wade từ Đại học King’s College London và trường Đại học Kinh tế và Chính trị London cố gắng trả lời*.

Việt Nam phải thay đổi từ một nền kinh tế chuyên gia công thành một nền kinh tế mà giá trị gia tăng dựa trên những sản phẩm và quy trình đổi mới sáng tạo. Ảnh: East West Manufacturing

Bẫy thu nhập trung bình là một “nỗi ám ảnh” bao phủ các quốc gia đang phát triển ở ASEAN khi tổng giá trị đầu ra của nền kinh tế không thể đuổi kịp mức độ tăng của giá thành sản xuất. Pietro Masina, Phó giáo sư tại Viện Nghiên cứu châu Á, Đại học Quốc gia Singapore cho rằng, không một quốc gia ASEAN nào, bao gồm cả Việt Nam hiện có khả năng bước từ một quốc gia có nền công nghiệp phụ trợ phụ thuộc vào chỉ dẫn nước ngoài thành một quốc gia hoàn toàn làm chủ và nội địa hóa cả về quản trị và công nghệ.

Cách rõ nhất để Việt Nam thoát khỏi điều này đã được nhắc đến từ gần 10 năm trước trong các báo cáo của World Bank là phải chuyển từ một nền kinh tế dựa vào lao động giá rẻ sang một nền kinh tế dựa vào năng suất lao động cao hơn, giá trị gia tăng dựa trên đổi mới sáng tạo trong quy trình và sản phẩm nhiều hơn. Các chuyên gia, cụ thể hơn, cho biết rằng, chính phủ phải đầu tư nhiều hơn vào khoa học và công nghệ, bao gồm cả việc đầu tư cho giáo dục các ngành này.

Chính phủ Việt Nam, trong những phát biểu của mình, cũng luôn tỏ ra đồng tình với quan điểm trên. Nhất là khi Việt Nam được “truyền cảm hứng” từ người láng giềng Trung Quốc – một nước có cơ chế hành chính tương đồng với Việt Nam ở điểm TW ban hành nghị quyết, địa phương triển khai hoạt động. Trung Quốc không chỉ có nền khoa học và công nghệ tiên tiến vượt bậc trong chưa đầy ba thập kỉ trở lại đây mà chính sách của họ thể hiện đầy quyết tâm với những mục tiêu dài hạn, chẳng hạn như sáng kiến Made in China 2025, nhằm mục tiêu thúc đẩy quốc gia này dẫn đầu thế giới trong những công nghệ tiên phong như trí tuệ nhân tạo, robotics…

Tuy nhiên, trong 10 năm qua ở Việt Nam, lời nói và hiện thực là cả một khoảng cách xa.

Theo hai tác giả của nghiên cứu, có thể phân các chính sách đổi mới sáng tạo thành ba loại: hướng tới mục tiêu (mission – oriented), hướng tới phát minh, sáng chế (invention-oriented) và hướng tới điều chỉnh hệ thống (system oriented).

Các chính sách hướng tới mục tiêu dài hạn tập trung vào đầu ra có ảnh hưởng xã hội mạnh mẽ, còn gọi là “đổi mới sáng tạo từ trên xuống”, bày tỏ tham vọng của chính phủ trong việc thay đổi một ngành, lĩnh vực công nghiệp nào đó, chẳng hạn như chính sách Made in China 2025 nói trên của Trung Quốc hay chính sách “đưa người lên Mặt trăng” do John F. Kennedy khởi xướng vào những năm 50.

Các chính sách hướng tới phát minh sáng chế thường chỉ tập trung vào giai đoạn sáng chế hơn là việc khai thác và thương mại hóa nó. Các chính sách này thể hiện dưới dạng tăng đầu tư R&D mạnh mẽ ở tất cả các khối nhà nước, viện, trường; trong đó bao gồm cả việc khuyến khích tư nhân đầu tư vào R&D, tăng số lượng biên chế cho các tổ chức nghiên cứu, đầu tư cho giảng dạy STEM.

Bẫy thu nhập trung bình là một “nỗi ám ảnh” bao phủ các quốc gia đang phát triển ở ASEAN khi tổng giá trị đầu ra của nền kinh tế không thể đuổi kịp mức độ tăng của giá thành sản xuất. Pietro Masina, Phó giáo sư tại Viện Nghiên cứu châu Á, Đại học Quốc gia Singapore cho rằng, không một quốc gia ASEAN nào, bao gồm cả Việt Nam hiện có khả năng bước từ một quốc gia có nền công nghiệp phụ trợ phụ thuộc vào chỉ dẫn nước ngoài thành một quốc gia hoàn toàn làm chủ và nội địa hóa cả về quản trị và công nghệ.

Cách rõ nhất để Việt Nam thoát khỏi điều này đã được nhắc đến từ gần 10 năm trước trong các báo cáo của World Bank là phải chuyển từ một nền kinh tế dựa vào lao động giá rẻ sang một nền kinh tế dựa vào năng suất lao động cao hơn, giá trị gia tăng dựa trên đổi mới sáng tạo trong quy trình và sản phẩm nhiều hơn. Các chuyên gia, cụ thể hơn, cho biết rằng, chính phủ phải đầu tư nhiều hơn vào khoa học và công nghệ, bao gồm cả việc đầu tư cho giáo dục các ngành này.

Chính phủ Việt Nam, trong những phát biểu của mình, cũng luôn tỏ ra đồng tình với quan điểm trên. Nhất là khi Việt Nam được “truyền cảm hứng” từ người láng giềng Trung Quốc – một nước có cơ chế hành chính tương đồng với Việt Nam ở điểm TW ban hành nghị quyết, địa phương triển khai hoạt động. Trung Quốc không chỉ có nền khoa học và công nghệ tiên tiến vượt bậc trong chưa đầy ba thập kỉ trở lại đây mà chính sách của họ thể hiện đầy quyết tâm với những mục tiêu dài hạn, chẳng hạn như sáng kiến Made in China 2025, nhằm mục tiêu thúc đẩy quốc gia này dẫn đầu thế giới trong những công nghệ tiên phong như trí tuệ nhân tạo, robotics…

Tuy nhiên, trong 10 năm qua ở Việt Nam, lời nói và hiện thực là cả một khoảng cách xa.

Theo hai tác giả của nghiên cứu, có thể phân các chính sách đổi mới sáng tạo thành ba loại: hướng tới mục tiêu (mission – oriented), hướng tới phát minh, sáng chế (invention-oriented) và hướng tới điều chỉnh hệ thống (system oriented).

Các chính sách hướng tới mục tiêu dài hạn tập trung vào đầu ra có ảnh hưởng xã hội mạnh mẽ, còn gọi là “đổi mới sáng tạo từ trên xuống”, bày tỏ tham vọng của chính phủ trong việc thay đổi một ngành, lĩnh vực công nghiệp nào đó, chẳng hạn như chính sách Made in China 2025 nói trên của Trung Quốc hay chính sách “đưa người lên Mặt trăng” do John F. Kennedy khởi xướng vào những năm 50.

Các chính sách hướng tới phát minh sáng chế thường chỉ tập trung vào giai đoạn sáng chế hơn là việc khai thác và thương mại hóa nó. Các chính sách này thể hiện dưới dạng tăng đầu tư R&D mạnh mẽ ở tất cả các khối nhà nước, viện, trường; trong đó bao gồm cả việc khuyến khích tư nhân đầu tư vào R&D, tăng số lượng biên chế cho các tổ chức nghiên cứu, đầu tư cho giảng dạy STEM.

Theo khoahocphattrien.vn

Tác giả